I. TỰ NHIÊN – DÂN CƯ
1. Tự nhiên
Tà Xùa là xã vùng cao, thuộc huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Ở phía bắc huyện, độ cao trung bình so với mặt nước biển từ 1.500- 2.000m. Tọa độ địa lý điểm trung tâm từ 21o19'37" độ vĩ bắc đến 104o29'25" độ kinh đông. Tứ cận: Phía bắc, đông bắc, tây bắc giáp xã Háng Đồng; phía nam giáp xã Phiêng Ban; phía tây giáp xã Làng Chếu; phía tây bắc giáp xã Xím Vàng; phía đông và đông nam giáp xã Suối Tọ (huyện Phù Yên). Từ huyện lỵ đến Uỷ ban nhân dân xã đi theo tỉnh lộ 112 dài 14,5 km.
Tổng diện tích tự nhiên 4496,6 ha, trong đó đất nông nghiệp 2.437,87 ha (đất SX nông nghiệp 977,19 ha, đất lâm nghiệp 1.460,68 ha), đất phi nông nghiệp 82,73ha (đất chuyên dùng 51,54ha, đất ở 16,22ha và một số loại đất khác 14,97 ha), đất chưa sử dụng 1.976 ha[1]. Đất đai phù hợp với sản xuất nông-lâm nghiệp, như khai hoang ruộng bậc thang, trồng cây lương thực (lúa, ngô, sắn), rừng sinh thái, trồng cỏ chăn nuôi đại gia súc, gia cầm, nuôi ong lấy mật. Nhiệt độ trung bình hàng năm 16-180C. Thường nóng nhiều vào các tháng 5, 6, 7, 8. Thường lạnh nhiều vào các tháng 11, 12 đến tháng 3 năm sau. Thường nắng nhiều vào các tháng 4, 5, 6, 7. Thường mưa nhiều vào các tháng 7, 8, 9. Lượng mưa trung bình hàng năm 1.300-1.500 mm.
Xã có suối Bẹ chảy giữa 2 bản Chung Trinh xã Tà Xùa và bản Háng Bla xã Háng Đồng, chảy qua địa phận các bản Tà Xùa A, Tà Xùa C, Bản Bẹ rồi lưu hợp với suối Háng Đồng xuống suối Sập, chiều dài 25km, lưu lượng nước trung bình, tốc độ dòng chảy mạnh. Có hồ thủy điện Tà Xùa. Suối, hồ là nguồn nước tự nhiên cho sản xuất và đời sống nhưng cũng tiềm ẩn những thiên tai như lũ quét, sạt lở đất, hạn hán như năm 2008, 2010 làm thiệt hại 20% diện tích cây lương thực. Xã có dốc Tà Xùa - Làng Chếu dài 2 km, dốc Tà Xùa đi bản Chung Trinh dài 3 km, dốc từ bản Trò B xuống thủy điện Tà Xùa thuộc Công ty Xuân Thiện dài 5 km. Đồi Trạm thông tin Quân khu II cao 1.700m, các núi Tà Xùa A cao 1.600 m, Tà Xùa C cao 1.500 m, Bản Chung Trinh cao 1.640 m, Bản Khe Cải cao 1.500 m, Bản Mống Vàng cao 1.570 m, Bản Bẹ cao 1.420 m, Bản Trò A cao 1.400 m, Bản Trò B cao 1.410 m so với mặt nước biển. Có mỏ Uran, Kaolin ở bản Trò A.
Diện tích rừng tái sinh 625,78 ha. Diện tích rừng trồng 308,5 ha, rừng khoanh nuôi bảo vệ 526,4 ha. Độ che phủ của rừng 40% tổng diện tích tự nhiên. Có những loài thực vật quý hiếm như mộc nhĩ, nấm hương và một số loại cây dược liệu như hà thủ ô, đẳng sâm... Có những loài động vật quý hiếm như hoãng, lợn rừng, sơn dương, gà rừng, chim...
2. Dân cư
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 01/4/2009, dân số các dân tộc xã Tà Xùa như sau:
TT
|
Dân tộc
|
Nam
|
Nữ
|
Tổng cộng
|
1
|
Kinh
|
15
|
9
|
24
|
2
|
Tày
|
1
|
|
1
|
3
|
Thái
|
2
|
4
|
6
|
4
|
Mường
|
3
|
1
|
4
|
5
|
Mông
|
1 174
|
1 205
|
2 379
|
6
|
Dao
|
1
|
|
1
|
7
|
Xinh Mun
|
1
|
|
1
|
Tổng cộng
|
1 197
|
1 219
|
2 416
|
Đến 31/12/2015 xã Tà Xùa có 8 đơn vị dân cư, 450 hộ, 2.934 nhân khẩu (nam 1.482 người, nữ 1.452 người)[2]:
TT
|
Tên bản
|
Số hộ
|
Số nhân khẩu
|
Ở cách trung
tâm xã (km)
|
1
|
Bản Tà Xùa C
|
69
|
429
|
2
|
2
|
Chung Trinh
|
36
|
260
|
3
|
3
|
Bản Tà Xùa A
|
94
|
620
|
T.tâm xã
|
4
|
Bản Khe Cải
|
22
|
146
|
3,7
|
5
|
Bản Mống Vàng
|
20
|
126
|
2
|
6
|
Bản Bẹ
|
51
|
354
|
7
|
7
|
Bản Trò B
|
45
|
321
|
8
|
8
|
Bản Trò A
|
113
|
678
|
11
|
|
Tổng số
|
450
|
2.934
|
|
II. KINH TẾ – VĂN HÓA – XÃ HỘI
1. Kinh tế
Kinh tế của xã chủ yếu là nông nghiệp như trồng lúa, ngô, sắn, rong riềng, khoanh nuôi bảo vệ rừng, chè, táo sơn tra, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Đồng bào còn có nghề rèn, đan lát, dệt, may, thêu trang phục dân tộc. Diện tích các loại cây trồng chính có lúa nước 162ha, lúa nương 80ha, cây ngô 80 ha, cây sắn 45 ha (trồng xen với cây ngô), dong riềng 50 ha. Chè Tà Xùa, với những cây cổ thụ đã trở thành thương hiệu nổi tiếng trong và ngoài tỉnh. Xã đang chỉ đạo tập trung chăm bón, bảo vệ để cây chè có năng suất cao chất lượng tốt phát triển sản phẩm chè Tà Xùa một cách bền vững.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 1991-1995 là 4,2%/năm, giai đoạn 1996-2000 là 4,8%/năm, giai đoạn 2001-2005 là 6,7%/năm, giai đoạn 2006-2010 là 8,3%/năm, giai đoạn 2011 - 2014 là 10,5%/năm, bình quân thu nhập đầu người của xã 10 triệu đồng/năm. Cuối năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo còn 62,53%.
2. Văn hóa
Tà Xùa là xã có 100% dân tộc Mông. Xã có nhà văn hoá xã, nhà văn hoá bản. Những lễ hội dân gian được tổ chức ở xã có ném pao, múa khèn, thổi sáo, khèn môi, khèn lá, đánh quay, hát đối, trong những ngày tết cổ truyền của dân tộc Mông.
Xã có 8 đội văn nghệ ở xã, bản thường xuyên hoạt động, xã và bản duy trì các sinh hoạt múa, hát thường xuyên tổ chức giao lưu trong các ngày lễ, tết.
Những thầy cúng có tiếng ở xã như ông Thào A Sáu (A) -Bản Trò A, ông Phàng A Hờ -Bản Tà Xùa A, ông Mùa A Sở -Bản Chung Trinh, ông Lù A Sênh -Bản Tà Xùa C, ông Sồng A Hanh -Bản Khe Cải. Đồng bào các dân tộc ở xã có tục thờ cúng tổ tiên.
3. Giáo dục
Năm học 2014-2015 xã có 01 trường mầm non, 11 lớp mẫu giáo với 227 học sinh 20 cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên. 01 trường tiểu học, 23 lớp 404 học sinh, 33 cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên. 01 trường trung học cơ sở có 6 lớp 188 học sinh, 19 cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên. Cơ sở vật chất có 11 phòng học mẫu giáo, 23 phòng học tiểu học, 06 phòng học THCS.
4. Y tế, Thể thao
Trạm y tế xã đặt ở trung tâm xã, có 01 nhà làm việc cấp 4 với 7 phòng, 05 giường bệnh, 7 cán bộ y tế, trên địa bàn xã có 05 nhân viên y tế bản, hàng năm khám, điều trị cho khoảng 641 lượt bệnh nhân. Những cây thuốc quý, những bài thuốc hay lưu truyền ở xã như chữa rắn cắn bằng lá bồ cu vẽ; chữa đau dây thần kinh: long nhãn, lá dâu, đậu ván trắng, củ mài; chữa phong thấp (sưng chân): cây phong thấp, đơn gối hạc, mộc thông; chữa bại liệt: phụ tử, bạch phụ tử, tằm gió; chữa thấp khớp: cây trâu cổ, cỏ xước, thổ phục linh, cây tầm xuân, dây rung rúc, thiên niên kiện, rễ gấc, dây đau xương, cành cây dâu; chữa kiết lỵ: lá mơ lông, lá lốt, hạt cau, thường sơn, hạt dành dành; chữa u tiền liệt: cao ban long, bông má đề, nhục quế, cỏ tranh; chữa phổi yếu: bạch linh, đẳng sâm, bạch truột, cam thảo; chữa viên gan: đan sâm, cỏ nọc sởi, hoàng bá, mộc thông, chi tử, chỉ xác, đại hoàng; chữa hen: ma hoàng, hồ tiêu sọ, nhục quế, cam khương, đinh hương; chữa viêm loát dạ dày: ngũ vị cam, bồ cu vẽ, cây me dây; chữa đau bụng, tiêu chảy: lá bồ cu vẽ, lá dấu, lá dối, lá vòng, lá dưa chuột, lá vông vang.
Xã có 07 sân bóng chuyền, 01 sân cầu lông. Đồng bào còn lưu giữ những môn thể thao dân gian ở xã như cưỡi ngựa, đẩy gậy, kéo co, ném pao, đánh quay. Các môn thể thao mới như bóng đá, bóng chuyền thường xuyên luyện tập và thi đấu.
III. LỊCH SỬ
Xã Tà Xùa được thành lập tháng 9/1953 thuộc huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Từ 5/1955 đến 10/1962, thuộc châu Phù Yên, Khu tự trị Thái – Mèo. Từ 10/1962 đến 8/1964, thuộc huyện Phù Yên, tỉnh Nghĩa Lộ, Khu tự trị Tây Bắc. Từ 8/1964 đến 12/1975, thuộc huyện Bắc Yên, tỉnh Nghĩa Lộ, Khu tự trị Tây Bắc. Từ 1/1976 đến nay, thuộc huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La.
Tháng 4/1965, chi bộ xã được thành lập, có 3 đảng viên, đồng chí Lầu A Tếnh làm bí thư chi bộ. Tháng 01/2000, Đảng bộ xã được thành lập. Từ ngày thành lập đến nay đã qua 12 kỳ đại hội chi bộ và 3 kỳ đại hội Đảng bộ xã. Hiện nay Đảng bộ xã có 19 chi bộ trực thuộc, 108 đảng viên.
Thu-Đông năm 1953, thực dân Pháp sử dụng một số tên tay sai, tập hợp thành các cụm phỉ chống phá cách mạng. Quân phỉ do thống lý Giàng Páo Của chỉ huy từ Nậm Khắt đánh chiếm Ngọc Chiến và các xã vùng cao của huyện Bắc Yên, trong đó có xã Tà Xùa, chúng phát triển lên đến 1.000 tên vào đầu năm 1954. Khu ủy Tây Bắc đã thành lập Ban tiễu phỉ gồm bộ đội chủ lực và tiểu đoàn 176 phối hợp với dân quân các xã tuyên truyền, vận động hàng trăm tên phỉ trở về làm ăn lương thiện, bắt 29 tên tay sai ở khu 99, giải phóng các xã vùng cao của huyện Bắc Yên.
Trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), hàng chục thanh niên của xã lần lượt lên đường chiến đấu, phục vụ chiến đấu tại các chiến trường. Ở hậu phương cán bộ và nhân dân xã Tà Xùa nêu cao tinh thần vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, đẩy mạnh sản xuất, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu; các bà mẹ, các chị nêu cao tinh thần "Phụ nữ 3 đảm đang", các cháu thiếu nhi "Làm nghìn việc tốt", lực lượng dân quân ngày đêm luyện tập vững tay cày tay súng, đóng góp công sức phục vụ chiến đấu.
Xã Tà Xùa đã đóng góp lương thực; thực phẩm, đào giao thông hào, đào đắp trận địa phòng không; giải toả hàng hoá quân sự.
Các tập thể và cá nhân trong xã được Nhà nước tặng thưởng: 6 Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, 5 Huân chương Kháng chiến hạng Nhì, 10 Huân chương Kháng chiến hạng Ba, 5 Huy chương Kháng chiến hạng Nhất, 7 Huy chương Kháng chiến hạng Nhì. Có 30 bằng khen của tỉnh, trong đó tập thể: 15, cá nhân 15. Có 50 giấy khen của huyện, trong đó tập thể 20, cá nhân 30.
[1] Nguồn: Huyện ủy Bắc Yên (Công văn số Số 374 - CV/HU ngày 22/8/2016 về việc góp ý vào dự thảo
Dư địa chí Sơn La)
[2] Nguồn: - Số hộ, số nhân khẩu theo Cục Thống kê Sơn La
- Khoảng cách từ trung tâm xã đến các bản theo Ban Tuyên giáo Huyện ủy Bắc Yên .